Nghiên cứu - trao đổi
Nhìn lại 40 năm thực hiện chính sách xã hội - Định hướng giải pháp góp phần phát triển toàn diện đất nước trong giai đoạn mới
07:12 PM 09/02/2024
(LĐXH) - Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của Nhân dân không ngừng được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Cùng với phát triển kinh tế, việc thực hiện các chính sách xã hội cũng được chú trọng hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng, mức hỗ trợ và mở rộng diện bao phủ theo hướng công bằng, tiến bộ, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, cơ bản bảo đảm an sinh của người dân theo quy định của Hiến pháp.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao” đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng toàn diện, hiệu quả, bền vững. Đồng thời, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, cần thiết phải mở rộng độ bao phủ của an sinh xã hội đến các nhóm dân cư, đặc biệt là người nghèo, người dễ bị tổn thương, nhất là đối với các nhóm như phụ nữ và trẻ em gái nghèo, dân tộc thiểu số, di cư.
1. Kết quả thực hiện chính sách xã hội và những vấn đề đặt ra
1.1. Thành tựu
Trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, quan điểm của Đảng về phát triển lĩnh vực xã hội là một quá trình cập nhật, bổ sung và phát triển chính sách xã hội. Trải qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII, quan điểm về chính sách xã hội dần được hoàn thiện và trở thành một hệ thống quan điểm về chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, đó là: Tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, bám sát tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Quá trình đổi mới nhận thức về chính sách xã hội của Đảng ta là một bước tiến dài mang tính lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được lan tỏa và chuyển biến nhận thức rõ rệt trong hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội đã có bước chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang đảm bảo quyền an sinh xã hội của công dân”.
Trong 40 năm qua, chính sách xã hội của Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật, góp phần bảo đảm an sinh xã hội
Tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc trong từng thời kỳ phát triển để mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả của phát triển và thực hiện công bằng xã hội; chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng xã hội hóa, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, hướng đến đảm bảo an sinh xã hội toàn dân.
Những chuyển hướng về tư tưởng, nhận thức và hành động trên đã tạo thành động lực to lớn để đưa Việt Nam “cất cánh”, hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững. Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trường kinh tế tương đối cao (đạt 4,4%/năm giai đoạn 1986-1990, 7%/năm giai đoạn 1996-2000, 6,8%/năm giai đoạn 2006-2019), chất lượng tăng trưởng được nâng cao (năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng nước nghèo và trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp (từ năm 2010, thu nhập bình quân đầu người đạt 1168USD) và đạt 4.110 USD năm 2022, bằng 48 lần so với năm 1986 và 3,5 lần so với năm 2010. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm còn hơn 14% năm 2010 và 3,8% năm 2020.
Trong giai đoạn 10 năm gần đây, đời sống của Nhân dân không ngừng được cải thiện; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn. Các chính sách xã hội cũng không ngừng được hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng, mức hỗ trợ và mở rộng diện bao phủ theo hướng công bằng, tiến bộ, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, cơ bản bảo đảm an sinh của người dân theo quy định của Hiến pháp. Nguồn lực đầu tư cho thực hiện chính sách xã hội ngày càng lớn, tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần trong các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010 và 4,67% GDP năm 2011 và khoảng 6,7% GDP năm 2021. Mặc dù đây vẫn là mức thấp so với quốc tế, song cũng là một nỗ lực rất lớn của nhà nước Việt Nam. Việc triển khai có hiệu quả các chính sách xã hội đã góp phần đem lại niềm tin và sự hài lòng của Nhân dân, nhất là trong đại dịch Covid-19 vừa qua. Chỉ số phát triển con người có sự cải thiện vượt bậc, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có chỉ số phát triển con người cao (Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2021 là 0,703; cải thiện thứ hạng từ vị trí 127/187 năm 2012 lên vị trí 115/191 năm 2021 trong bảng xếp hạng của Liên Hợp Quốc ).
TS. Nguyễn Văn Hồi, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phát biểu tại Hội thảo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 20230
Một số kết quả nổi bật đạt được trong lĩnh vực xã hội:
Thứ nhất, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và xã hội đặc biệt quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công với cách mạng và thân nhân người có công với cách mạng, trên 1,1 triệu người hưởng ưu đãi hàng tháng, cơ bản hỗ trợ dứt điểm đối với hộ người có công gặp khó khăn về nhà ở; 99,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng; thực hiện tốt quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính liệt sĩ, tu bổ, nâng cấp nghĩa trang và công trình ghi công liệt sĩ.
Thứ hai, giảm nghèo tiếp tục là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong gần 40 năm đổi mới, Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói được hoàn thành; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ khoảng trên 60% những năm cuối thập kỷ 90 xuống còn khoảng 8% hộ nghèo, cận nghèo vào cuối năm 2020 theo chuẩn mới; các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao giảm 4 %/năm. Công tác giảm nghèo theo hướng đa chiều được triển khai quyết liệt, đồng bộ, đổi mới về phương thức, giải pháp thực hiện, tập trung vào các đối tượng nghèo nhất với nhiều mô hình mới, cách làm hay, gắn kết giữa tạo sinh kế, việc làm, đào tạo nghề và xuất khẩu lao động; nhiều địa phương ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ người dân chủ động vươn lên thoát nghèo.
Thứ ba, thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản tạo việc làm bền vững. Việt Nam luôn đảm bảo tỷ lệ dân số có việc làm thuộc nhóm cao trên thế giới, đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp dưới 3% trong giai đoạn 2011-2020, ngay cả trong bối cảnh đại dịch COVID-19 cũng chỉ tăng nhẹ lên 3,22% năm 2021. Thị trường lao động đang phát triển theo hướng hiện đại, cơ cấu lao động dịch chuyển theo hướng tích cực - tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 67% năm 2022; tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm nhanh, từ 48,3% năm 2011 xuống còn 40,16% năm 2017 và 27,54% năm 2022; tỷ trọng lao động trong khu vực có quan hệ lao động tăng nhanh, từ 35% năm 2011 lên gần 43% năm 2017 và 53,81% năm 2022; thu nhập của người lao động đã dần được cải thiện - tiền lương bình quân thực tế theo tháng của người lao động làm công hưởng lương có tốc độ tăng khá nhanh, đạt 12,15% giai đoạn 2011-2022.
Thứ tư, chính sách bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng - Tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng từ 9,5 triệu người năm 2010 lên 17,5 triệu người năm 2022; tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng từ 18,7% năm 2010 lên 38,08% năm 2022. Cùng với đó, bảo hiểm thất nghiệp cũng đã trở thành giá đỡ quan trọng, hỗ trợ hiệu quả cả doanh nghiệp và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, bị mất việc làm tạm thời. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng đều hàng năm, từ 14,2% năm 2010 lên 30,5% năm 2022.  
Thứ năm, chính sách trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh khó khăn, từng bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con người là trung tâm góp phần ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế. Chính sách trợ giúp xã hội được mở rộng về đối tượng, tăng mức hưởng, thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng và đạt hiệu quả. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng lên hàng năm, đạt 3,042 triệu người (bao phủ hơn 3% dân số) năm 2020; đạt 3,2 triệu người (3,2% dân số) năm 2021, trong đó trên 55% là người cao tuổi. Trợ giúp đột xuất đã bao phủ các nhóm đối tượng, bảo đảm người dân được hỗ trợ kịp thời khi gặp rủi ro, thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt, đã thực hiện rất thành công công tác phòng chống đại dịch Covid-19 đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội - Giai đoạn 2020 - 2022, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng ban hành 04 gói chính sách lớn hỗ trợ người dân, người lao động và doanh nghiệp bị tác động của đại dịch Covid-19 (Nghị quyết số 42/NQ-CP, Nghị quyết số 68/NQ-CP, Nghị quyết số 116/NQ-CP và Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg). Theo đó, đã hỗ trợ cho trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác với tổng kinh phí trên 120 nghìn tỷ đồng. Những trợ giúp đó không chỉ tạo điều kiện cho những hoàn cảnh khó khăn vượt qua đại dịch mà còn tạo nên sự công bằng tương đối trong cộng đồng lúc hoạn nạn, thể hiện tính tương thân của dân tộc, tính ưu việt của chế độ.
Thứ sáu, hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng, đã cơ bản đảm bảo công bằng hơn trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin cho người dân, góp phần từng bước nâng cao phúc lợi, đảm bảo cuộc sống an toàn và hạnh phúc của nhân dân. Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển nhanh, phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung học cơ sở hoàn thành trước thời hạn; trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Đến năm 2022 đã thực hiện thành công bảo hiểm y tế toàn dân, với độ bao phủ 92% dân số; tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 90%, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân còn 10,8%; tỷ lệ dân số mắc bệnh lao còn khoảng 176/100.000 người (năm 2021). Nhà ở và điều kiện ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên từng bước được cải thiện. Đến cuối năm 2021, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%, trong đó, 54% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn.Từ năm 2016 đã hoàn thành mục tiêu 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh mặt đất và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% các xã có đài truyền thanh xã.
1.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Đó là, kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, đời sống của một bộ phận người dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị thiên tai còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng miền còn lớn; bất bình đẳng xã hội (phi thu nhập) có chiều hướng gia tăng, nhất là bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, dân tộc thiểu số.
Thị trường lao động chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và việc làm thấp, thiếu tính bền vững. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ mới chỉ đạt 26,44% năm 2022, lao động Việt Nam còn thiếu về các kỹ năng làm việc cốt lõi trong bối cảnh tăng cường hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0; tỷ trọng lao động có việc làm phi chính thức còn lớn (65,44% năm 2022); mục tiêu xây dựng quan hệ lao động hài hòa còn khó khăn, thiếu cơ sở vững chắc để xây dựng quan hệ lao động lành mạnh và bền vững; hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động còn hạn chế; chất lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động.
Độ bao phủ của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp còn thấp (tương ứng chiếm 38,08% và 31,18% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2022). Phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa đạt được so với tiềm năng của nhóm dân số mục tiêu, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa thực sự hấp dẫn người lao động tham gia, dẫn đến nguy cơ một tỷ lệ lớn người cao tuổi không có lương hưu trong bối cảnh già hoá dân số đang diễn ra nhanh chóng; chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa bao phủ tới lao động trong khu vực phi chính thức; tình trạng rút bảo hiểm xã hội một lần có xu hướng tăng; chậm và trốn đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn kéo dài; lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn diễn biến phức tạp.
Phạm vi bao phủ của trợ giúp xã hội còn hẹp, trợ cấp hưu trí xã hội mới áp dụng cho người từ 80 tuổi trở lên và người từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn. Trong khi đó, vẫn còn một nhóm dân số dưới 80 tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, chưa được hưởng chính sách an sinh. Mức trợ giúp cơ bản hiện hành còn thấp so với nhu cầu sống tối thiểu và chậm điều chỉnh (trong giai đoạn 2011-2023, mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh 5 lần, song đến nay mới ở mức 360 nghìn đồng/người/tháng, chỉ bằng 24% mức sống tối thiểu khu vực nông thôn và 18% mức sống tối thiểu khu vực thành thị năm 2021). Thiếu cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân nói chung và người lao động ứng phó với các cú sốc trên diện rộng khi xảy ra khủng hoảng như dịch bệnh, thiên tai, ứng dụng công nghệ cao - tự động hóa, v.v…
Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội chưa đáp ứng được các yêu cầu về đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hóa. Hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em chưa được quan tâm đầu tư thỏa đáng. Chất lượng và năng lực y tế cơ sở chưa đáp ứng tốt yêu cầu; y tế dự phòng còn yếu, đặc biệt là trong ứng phó với rủi ro dịch bệnh lớn; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện, nhất là ở trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao. Bạo lực gia đình, bạo hành, đuối nước, xâm hại trẻ em diễn biến phức tạp, gây bức xúc xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế. Tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia còn thấp. Nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, các đô thị, lao động di cư, người có thu nhập thấp chưa được đảm bảo. Số lượng và chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, còn nhiều khó khăn cho người dân tiếp cận và thụ hưởng.
Nhìn chung, hệ thống chính sách xã hội còn thiếu tính bao trùm, liên kết trong hỗ trợ đối tượng và chưa bao phủ hết đối tượng, chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách (bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, giảm nghèo, phát triển kỹ năng và việc làm) trong tổ chức thực hiện. Tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm nhưng đầu tư cho chính sách xã hội chưa tương xứng, tỷ lệ chi cho chính sách xã hội trên GDP còn thấp (tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội mới chỉ đạt 6,7% GDP năm 2021). Các trụ cột chính sách được thiết kế và triển khai thực hiện hầu hết theo ngành dọc, chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp dịch vụ; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia vào cung cấp dịch vụ công.
2. Một số giải pháp đổi mới chính sách xã hội góp phần phát triển toàn diện đất nước trong giai đoạn mới
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp cần thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội. Các bộ, ngành, tổ chức liên quan phát huy vai trò, chủ động trong xây dựng, thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền tăng cường hiệu lực hiệu quả trong quản lý và thực hiện; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để người dân tích cực tham gia và giám sát thực hiện chính xã hội tại cộng đồng, cơ sở.
Thứ trưởng Nguyễn Văn Hồi tặng quà cho người có công tỉnh Bình Định
Hai là, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhận thức đúng, đầy đủ về chính sách xã hội. Khẳng định quyết tâm xây dựng và thực hiện chính sách xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm và bền vững, dựa trên quyền con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể; phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chính sách xã hội. Xây dựng hệ thống quản trị hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân trong tổ chức thực hiện; tăng cường cải cách hành chính, minh bạch trong quản lý nhà nước về chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về chính sách xã hội tập trung, thống nhất, xuyên suốt trong chỉ đạo điều hành từ trung ương đến địa phương. Chuyển đổi số sâu rộng, toàn diện trong các lĩnh vực chính sách xã hội; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu. Hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực thực hiện chính sách xã hội linh hoạt, hiệu quả; tăng cường xã hội hóa và hợp tác công tư trong thực hiện chính sách xã hội.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm bền vững và phát triển thị trường lao động. Nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, chủ động thích ứng với già hóa dân số và dân số già; chuyển trọng tâm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Tạo đột phá đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, bảo đảm người lao động được đào tạo ngành nghề phù hợp, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập; xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ năng nghề cho các ngành, nghề trong xã hội. Giải quyết việc làm bền vững cho lực lượng lao động; tăng cường chính sách, cơ chế hỗ trợ vốn vay tạo việc làm và sinh kế cho các nhóm đối tượng yếu thế và triển khai hiệu quả chính sách việc làm công.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội  đa tầng, toàn diện, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau. Thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế, chính sách an sinh xã hội theo hướng chủ động, tích hợp, có sự điều phối và liên kết giữa các hợp phần bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và việc làm, nhằm hướng tới bao phủ toàn dân và chuẩn bị tốt hơn trong trường hợp xảy ra các cú sốc kinh tế và các cú sốc khác.
Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tiếp tục được quan tâm và ưu tiên cao nhất trong thực hiện các chính sách xã hội; điều chỉnh mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; hỗ trợ nhà ở, giáo dục, đào tạo, việc làm, phát triển sản xuất và tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người có công và thân nhân; bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú.
Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế bao phủ toàn bộ lực lượng lao động; đẩy mạnh cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội, mở rộng, gia tăng quyền lợi của đối tượng, thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và quản lý, đầu tư phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội; ban hành cơ chế, chính sách phù hợp khắc phục có hiệu quả việc rút bảo hiểm xã hội một lần. Phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm bền vững cho người lao động, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp;…
Sáu là, hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội, hỗ trợ người dân kịp thời khắc phục khó khăn trước các tác động của khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro khác. Bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, người cao tuổi, người khuyết tật, người di cư và gia đình có trẻ em; có chính sách bảo trợ xã hội đối với người không có khả năng lao động. Nghiên cứu, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy và nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy. Phát triển mạng lưới dịch vụ trợ giúp xã hội giải quyết vấn đề bạo lực, bạo hành gia đình, phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi; đổi mới công tác huy động nguồn lực xã hội; …
Phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp, phát hiện và can thiệp sớm các vấn đề của người dân; hỗ trợ người dân tự giải quyết các vấn đề và phát triển cộng đồng bền vững, toàn diện. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi; phát huy vai trò của người cao tuổi trong phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu, khả năng của người cao tuổi; phát triển hệ thống cơ sở dịch vụ chăm sóc đối với người cao tuổi; …
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo; hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế và từng bước nâng cao thu nhập của các hộ nghèo, cận nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm ổn định đời sống lâu dài cho người dân; triển khai cơ chế thí điểm phân cấp trọn gói thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảy là, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và y tế, cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở; nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cho trẻ dưới 5 tuổi; xây dựng xã hội học tập và thúc đẩy học tập suốt đời; chú trọng phát triển mạng lưới trường lớp và nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo; tăng cường giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân; chú trọng phát triển mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng; chú trọng chăm sóc sức khoẻ tâm thần; chăm sóc sức khoẻ phụ nữ mang thai, bà mẹ và trẻ em. Nâng cao chất lượng dự báo, giám sát, ngăn ngừa và khống chế dịch bệnh; phát triển y học gia đình; quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử và khám sức khỏe định kỳ cho Nhân dân.
Tám là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội. Phát triển hệ thống dịch vụ xã hội (dịch vụ công tác xã hội, dịch vụ về việc làm, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục, chăm sóc người cao tuổi) đa dạng, liên thông, liên tục, theo hướng chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu và khả năng tiếp cận của các nhóm dân cư, nhất là hỗ trợ công nhân lao động, đối tượng yếu thế, người di cư và dân tộc thiểu số. Mở rộng hợp tác công - tư trong cung cấp dịch vụ xã hội cho người dân và tạo cơ chế để khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công; cải cách phương thức tài chính cho dịch vụ công; xây dựng dịch vụ công chất lượng cao đối với một số nhóm xã hội có khả năng thanh toán; phân định lại chức năng rõ ràng giữa an sinh xã hội với cung cấp các dịch vụ cơ bản.
Chín là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, nguồn tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật của các nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế cho thực hiện chính sách xã hội; khuyến khích huy động nguồn lực quốc tế hỗ trợ, đầu tư phát triển các dịch vụ xã hội đáp ứng nhu cầu của người dân; hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng, chống dịch bệnh, ô nhiễm môi trường xuyên biên giới./.
TS. Nguyễn Văn Hồi
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội


TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030
  2. Bộ LĐ-TB&XH (2023), Dự thảo Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
  3. Bộ LĐ-TB&XH (2023), Tổng kết 40 năm “đổi mới” các lĩnh vực lao động, người có công và xã hội
  4. Chính phủ (2021), Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
  5. Hội đồng lý luận Trung ương (2023), Báo cáo Đánh giá quá trình phát triển quan điểm về chính sách xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam
  6. Ngân hàng Thế giới (2021a), Báo cáo Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam: tầm nhìn đến 2030
  7. Ngân hàng Thế giới (2021), Báo cáo Việt Nam thích ứng với xã hội già hóa. https://documents1.worldbank.org/
  8. Ngân hàng Thế giới (2023), Báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu 
  9.  Nuno Cunha – chuyên gia cấp cao về ASXH của ILO (2022), Hướng đến một hệ thống An sinh xã hội toàn diện ở Việt Nam
  10. Tổng cục Thống kê (2021), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019: Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam.
  11. Tổng cục Thống kê (2020), Tổng điều tra kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019
  12. UNDP (2023), Báo cáo Phát triển Con người (HDR) toàn cầu 2021/22.
  13. UNFPA và TCTK (2021), Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2022-2069