Nghiên cứu - trao đổi
Trách nhiệm của doanh nghiệp trong thực hiện an sinh xã hội
03:23 PM 01/07/2020
(LĐXH) - Thực hiện an sinh xã hội là một nội dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trách nhiệm an sinh xã hội của doanh nghiệp là một vấn đề khá mới đối với các nước đang phát triển và ở Việt Nam hiện nay.
Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến bảo đảm an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, góp phần phát triển bền vững. An sinh xã hội được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tiếp tục phát triển quan điểm, chủ trương đó của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết của các kỳ Đại hội đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt ra yêu cầu “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ; đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn; coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu bảo đảm người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội; bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu nhập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hiện nay nước ta có hơn 700.000 doanh nghiệp đang tham gia thị trường có đăng ký, có đến 5 triệu hộ kinh doanh cá thể; lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên) khoảng 54,88 triệu người, số người lao động đang làm việc ước tính 53,52 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2019 khoảng 2,2%. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề đặt ra là hệ thống doanh nghiệp đã và đang có vai trò, trách nhiệm như thế nào để cùng với Nhà nước và cộng đồng giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội.
Thực hiện an sinh xã hội là một nội dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trách nhiệm an sinh xã hội của doanh nghiệp là một vấn đề khá mới đối với các nước đang phát triển và ở Việt Nam hiện nay. Theo quan niệm của Hội đồng Thương mại thế giới, thì “trách nhiệm thực hiện an sinh xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết trong việc ứng xử hợp đạo lý và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ, cũng như của cộng đồng địa phương và của toàn xã hội nói chung”. Có thể có nhiều cách diễn giải khác nhau, tuy nhiên có thể hiểu trách nhiệm an sinh xã hội của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố cấu thành: (1) trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng; (2) trách nhiệm về bảo vệ môi trường; (3) trách nhiệm với người lao động (dạy nghề, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, BHYT, ATLĐ); (4) trách nhiệm chung với cộng đồng (người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, bảo vệ trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội).
Thực hiện an sinh xã hội là một nội dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại hình thức trách nhiệm an sinh xã hội mang tính truyền thống, liên kết thế hệ trong gia đình, bố mẹ, ông bà chăm sóc con cháu và khi bố mẹ, ông bà không còn khả năng lao động nữa thì con cháu chăm sóc phụng dưỡng bố mẹ, ông bà. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế như hiện nay thì hình thức an sinh xã hội này đang có vấn đề bất cập. Thực tế cho thấy, người trụ cột gia đình bị mất việc làm, hoặc giảm nguồn thu nhập thì mô hình an sinh xã hội này không phát huy được vai trò. Bên cạnh hình thức này cũng đang có hình thức hỗ trợ nhau trên tinh thần tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách phát huy hiệu quả trong việc trợ giúp xã hội đối với người yếu thế, gặp thiên tai, hỏa hoạn. Các doanh nghiệp tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện như giúp nạn nhân bão lụt, thiên tai hay tai nạn, đóng góp vào Quỹ xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh mặt tích cực, vẫn còn không ít doanh nghiệp chưa nhận thức được thực hiện an sinh xã hội là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, các hoạt động mang tính tự phát, đánh bóng hình ảnh với mục đích riêng. Do vậy, việc đề cao vai trò của doanh nghiệp trong thực hiện an sinh xã hội rất quan trọng ở Việt Nam hiện nay.
Chính sách an sinh xã hội hiện nay được biết đến bởi hai trụ cột BHXH và Trợ giúp xã hội. BHXH là hình thức an sinh xã hội thực hiện trên nguyên tắc có đóng, có hưởng, kể cả hình thức bắt buộc hay tự nguyện bao gồm y tế, nghề nghiệp, thai sản, tuổi già. Trợ giúp xã hội là hình thức an sinh xã hội thực hiện trên nguyên tắc không đóng vẫn được hưởng, bao gồm trợ cấp xã hội, trợ giúp khẩn cấp, ưu đãi xã hội. Hình thức an sinh xã hội tự nguyện đang có xu hướng phụ thuộc vào vai trò thực hiện của doanh nghiệp ngày càng lớn. Do vậy, hệ thống an sinh xã hội ở nước ta đang triển khai theo hướng đa tầng, linh hoạt, nhằm mục tiêu cơ bản: (1) giải quyết được những vấn đề cơ bản trong giai đoạn chuyển đổi; (2) phải mang tính xã hội; (3) bảo đảm độ an toàn và có yếu tố bền vững. Đặc biệt, việc xây dựng một hệ thống BHXH hoàn chỉnh, theo nguyên tắc đóng – hưởng (bao gồm BHXH bắt buộc và tự nguyện, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp) đang được quan tâm thực hiện. Trước hết, để đối phó với bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp gia tăng. Việt Nam đang thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, nâng mức lương tối thiểu vùng cho người lao động thì vấn đề xác lập vai trò tích cực hơn của doanh nghiệp trong thực hiện an sinh xã hội lại càng là vấn đề có ý nghĩa mang tính cấp bách. Do vậy, tăng cường sự tham gia của chủ thể doanh nghiệp vào quá trình thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu nhằm xây dựng và thực hiện hệ thống an sinh của Việt Nam ngày càng tốt hơn, bao phủ rộng hơn, hiệu quả hơn.
Theo Tổng LĐLĐ Việt Nam, một trong nguyên nhân trực tiếp dẫn đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (trong đó có vấn đề thực hiện an sinh xã hội) nửa vời là do tổ chức công đoàn ở một số nơi còn yếu. Tại khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế tư nhân, chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, nhiều doanh nghiệp tổ chức công đoàn hoạt động chỉ mang tính chất hình thức, là cánh tay nối dài của chủ sử dụng lao động. Do vậy, khi có tranh chấp xảy ra, người lao động trong tình thế không được bảo vệ, để giải quyết vấn đề họ tìm cách đình công. Từ nguyên nhân này dẫn đến, số vụ đình công của công nhân ngày một gia tăng. Theo số liệu tổng hợp của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2018 cả nước xảy ra 164 cuộc đình công và ngừng việc tập thể, khu vực doanh nghiệp FDI chiếm tỷ lệ lớn… Tính chất của các cuộc đình công chủ yếu là đình công tự phát, các xung đột về lợi ích của người lao động vì thế cũng không giải quyết được. Do vậy, doanh nghiệp quan tâm và thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội cho người lao động sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ đình công của công nhân ở Việt Nam hiện nay.
Trong giai đoạn tới, để tăng cường thực hiện các mục tiêu vì sự phát triển bền vững theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chỉnh phủ, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, tạo điều kiện để doanh nghiệp thực hiện tốt an sinh xã hội, các cơ quan chức năng cần định hướng chính sách an sinh xã hội như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cấp quản lý, doanh nghiệp, người lao động về trách nhiệm trong việc thực hiện an sinh xã hội gắn với phát triển bền vững của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ người dân có việc làm, nâng cao thu nhập, giảm nghèo và tham gia thị trường lao động
- Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn.
- Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước.
- Theo dõi chặt chẽ tình hình biến động lao động trong các doanh nghiệp, đặc biệt là tại các khu công nghiệp để có các giải pháp kịp thời tạo điều kiện cho người lao động mất việc nhanh chóng tìm được việc làm. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao năng lực dự báo và cung cấp thông tin thị trường lao động tại các vùng nông thôn, vùng chuyển đổi cơ cấu đất đai; tổ chức việc làm tạm thời cho người lao động nghèo bị thất nghiệp, thiếu việc làm trong các hộ gia đình nghèo hoặc cận nghèo.
- Theo dõi tình hình tiền lương, thu nhập của người lao động; nghiên cứu đề xuất giải pháp để cải thiện tiền lương, thu nhập để người lao động bớt khó khăn trong điều kiện lạm phát, giá cả sinh hoạt tăng cao; giảm nguy cơ tranh chấp lao động.
- Tập trung triển khai các Đề án dạy nghề hiện hành; triển khai các chương trình, dự án di dân, định canh, định cư cho người dân gắn với điều kiện cụ thể của các vùng, nhằm ổn định cuộc sống cho nhân dân, tạo điều kiện chuyển đổi nghề.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống chính sách về bảo hiểm xã hội
Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng, bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của Quỹ bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Rà soát, bổ sung quy định buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định của pháp luật. Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; tăng tỷ lệ lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Thứ tư, tăng cường trợ giúp xã hội người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Phấn đấu đến năm 2030 có chính sách trợ giúp xã hội đối với 40% dân số có thu nhập thấp.
Thực hiện tốt công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng.
Thứ năm, bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ sáu, tăng cường công tác thanh, kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định liên quan đến thực hiện an sinh xã hội quy định tại Bộ Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế và các Luật có liên quan khác. Khen thưởng, nêu gương, nhân rộng mô hình các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác an sinh xã hội.
TS. Nguyễn Văn Hồi
Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội,