Nghiên cứu - trao đổi
Phát triển nguồn nhân lực trước bối cảnh hội nhập
03:50 PM 13/08/2018
Phát triển nguồn nhân lực, gắn đào tạo nghề với thị trường lao động, tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo nhân lực được xem là một trong những giải pháp đột phá thúc đẩy thực hiện chiến lược kinh tế của Việt Nam.
Xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là sự hình thành Cộng đồng ASEAN và việc triển khai các cam kết thương mại mới như Hiệp định thương mại với EU và Hiệp định toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị lực lượng lao động để có thể đáp ứng và hưởng lợi từ các cam kết này.
Diễn biến nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cùng với bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với nhiều hiệp định tự do, quy mô lớn đã đặt Việt Nam trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có khoảng 94 triệu lao động, trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 55,16 triệu người. So với cùng thời điểm năm 2017, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tăng 586,8 nghìn người; giảm 70,7 nghìn người so với quý trước (trong đó, giảm chủ yếu ở khu vực nông thôn). Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I/2018 ước tính là 54 triệu người, bao gồm 20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 38,6%); khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người (chiếm 26,7%); khu vực dịch vụ 18,7 triệu người (chiếm 34,7%). Số liệu thất nghiệp thống kê nêu rõ, tỷ lệ thanh niên (độ tuổi từ 15 đến 24) thất nghiệp chiếm tỷ lệ khá lớn, khoảng 49,4% tổng số người thất nghiệp. Đáng chú ý, lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ "Sơ cấp nghề" trở lên trong quý I ước tính là 11,6 triệu người, mới chỉ chiếm 21,5% số lao động có việc làm trong cả nước.
Từ thực trạng trên cho thấy, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ là lợi thế của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, khi Việt Nam ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn như CPTPP thì lao động trình độ cao mới có cơ hội có việc làm và số còn lại đứng trước nguy cơ thất nghiệp. Yêu cầu đặt ra hiện nay là cần đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục nghề nghiệp; phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Trong đó, thực hiện đào tạo lại, đào tạo bổ sung, nhất là cho sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm sang những lĩnh vực thiếu lao động, đào tạo cho công nghệ thông tin, du lịch; Nghiên cứu, có giải pháp tạo việc làm cho lao động nữ 35 tuổi trở lên mất việc làm.
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động và hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau:
 Thứ nhất, đổi mới yêu cầu về giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đẩy mạnh đào tạo kỹ năng, năng lực thực hành; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng nguồn lực cho phát triển GDNN. Rà soát tổng thể đội ngũ nhà giáo GDNN (cả giáo viên trong các trường TCCN và CĐ) để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng lộ trình chuẩn hóa để đáp ứng mục tiêu đào tạo nghề đến năm 2020. 
Thứ hai, đẩy nhanh việc xây dựng các chuẩn đầu ra dựa trên tiêu chuẩn nghề phù hợp với Khung trình độ quốc gia, trước mắt tập trung vào các nghề trọng điểm, các nghề có trong danh mục của hội thi tay nghề ASEAN, rà soát và điều chỉnh việc xây dựng các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, theo hướng linh hoạt, tăng tính thực hành. Tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề, ưu tiên tập trung các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; rà soát, chỉnh sửa các danh mục thiết bị đã ban hành theo hướng tiếp cận với các nước trong khu vực; áp dụng tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Rà soát, thống nhất các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN; xây dựng các cơ chế, quy định về đảm bảo chất lượng; các cơ chế, quy định và phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo chất lượng trong các cơ sở GDNN;
Thứ ba, tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho ngư­ời lao động của doanh nghiệp; Các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về thuế; Cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo, sử dụng lao động của doanh nghiệp theo ngành, nghề và nhu cầu tuyển dụng lao động hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
Thứ tư, tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn để tạo được sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức về tầm quan trọng của GDNN đối với toàn xã hội; Xây dựng các sản phẩm tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp, phân luồng học sinh trong nhà trường phổ thông; giới thiệu việc làm trong trường nghề. Tiếp tục hợp tác với chính phủ Hàn Quốc, Đức, Italia và Nhật Bản trong triển khai các dự án ODA trong lĩnh vực dạy nghề đã ký kết; thực hiện đám phán với các nhóm nước trong ASEAN để tiến tới công nhận văn bằng, chứng chỉ và kỹ năng nghề giữa các nước; Hoàn thiện các chính sách, khuyến khích các cơ sở GDNN trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài; hợp tác nghiên cứu khoa học; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở GDNN, hợp tác đào tạo, mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Thứ năm, phát triển thị trường lao động trong giai đoạn đến năm 2020 vẫn phải kết hợp giữa chiến lược phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, hướng về xuất khẩu, phát huy được các lợi thế so sánh và tiềm năng của lực lượng lao động với chiến lược tập trung vào nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập. Thúc đẩy thực hiện cơ chế thương lượng, thỏa thuận về tiền lương nhằm đảm bảo tiền lương thực tế được trả đúng theo cơ chế thị trường đồng thời phù hợp với sự đóng góp của người lao động vào quá trình tăng trưởng.
Thứ sáu, thúc đẩy quá trình tự do lựa chọn việc làm và dịch chuyển lao động (dịch chuyển dọc theo các cấp trình độ, dịch chuyển ngang giữa các thành phần sở hữu, khu vực, vùng và quốc tế) đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trường lao động (hướng nghiệp, dịch vụ việc làm, thông tin và dự báo thị trường lao động) và tổ chức cung cấp các dịch vụ công về việc làm có hiệu quả.
Thứ bảy, hỗ trợ các nhóm yếu thế trong thị trường lao động, tăng cường an sinh xã hội và sự tham gia của người lao động vào chế độ bảo hiểm xã hội; tăng cường khả năng phòng ngừa và khắc phục rủi ro về việc làm và thu nhập của người lao động. Đồng thời, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh và nâng cao năng lực của các chủ thể trên thị trường lao động, đặc biệt là năng lực quản lý, tổ chức, điều tiết và hỗ trợ thị trường lao động phát triển của Nhà nước.

 Hà Văn Hưng