Giáo dục - Nghề nghiệp
Những đột phá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
04:24 PM 18/02/2018
Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động (TTLĐ) và phát triển giáo dục, đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và với tiến bộ khoa học - công nghệ.
Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) có vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực trực tiếp trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Trong những năm qua, hệ thống các cơ sở GDNN đã có những bước phát triển cả về quy mô, chất lượng đào tạo, người học sau tốt nghiệp từng bước đáp ứng được nhu cầu của TTLĐ trong và ngoài nước. Tuy nhiên, cũng có nhiều thách thức đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh TTLĐ năng động và thay đổi nhanh chóng, trình độ công nghệ và tổ chức sản xuất liên tục phát triển và xu thế của Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (Công nghiệp 4.0). Bên cạnh đó, còn một số khó khăn, bất cập như tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo và cơ cấu vùng miền, chưa quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN; nhận thức của xã hội, gia đình và người học về GDNN còn hạn chế; công tác dự báo nhu cầu đào tạo nghề nghiệp chưa được cải thiện; sự tham gia của doanh nghiệp trong GDNN còn bị động và sựu gắn kết với cơ sở GDNN chưa chặt chẽ. Hệ thống các cơ sở GDNN vẫn còn sức ỳ, chưa thực hiện hoặc được trao quyền tự chủ, chất lượng đào tạo phần nào chưa đáp ứng được yêu cầu của TTLĐ. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước về GDNN cũng chưa hoàn toàn thoát được tư duy bao cấp, kế hoạch hóa, chưa đủ sức kiến tạo cho sự phát triển của GDNN.
Thứ trưởng Bộ LĐTBXH Lê Quân thăm Trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu (tháng 12/2017).
Để thực hiện được mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 cần thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp, bao gồm: Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDNN; Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội; nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDNN; Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN; Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng; Tăng cường quản lý chất lượng GDNN; Gắn kết GDNN với TTLĐ, việc làm bền vững và an sinh xã hội; Phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động; Tăng cường công tác truyền thông, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Trong đó, 3 nhóm giải pháp được xác định là đột phá nâng cao chất lượng GDNN gồm: i) Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội; nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDNN; ii) Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng; iii) Gắn kết GDNN với TTLĐ, việc làm bền vững và an sinh xã hội.
1. Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội, nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDNN
Các cơ sở GDNN được giao quyền tự chủ hoàn toàn trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động; quyết định thực hiện các chỉ tiêu nhiệm vụ và tự đảm bảo các điều kiện để thực hiện và cung cấp các dịch vụ đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Về tổ chức và nhân sự, cơ sở GDNN được toàn quyền quyết định thành lập mới, tổ chức lại, sáp nhập, chia, tách, giải thể các đơn vị trực thuộc; quy định chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động của các đơn vị trực thuộc.
Về tài chính, để có nguồn thu thì nhà trường phải được thu học phí hay giai đoạn tới thực hiện theo cơ chế giá là giá dịch vụ đào tạo, giá này phải được tính đúng tính đủ chi phí đào tạo. Đối với thu từ NSNN cần phải hiểu rõ, tự chủ không có nghĩa là giảm chi NSNN mà chỉ thay đổi phương thức đầu tư từ NSNN cho GDNN. Giá dịch vụ đào tạo tính đúng tính đủ đảm bảo chất lượng cao thì sẽ làm giảm cơ hội học tập của người nghèo. Nguồn thu học phí, thu từ dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng và các hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực GDNN bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính đủ chi phí và cấp bù học phí (giá dịch vụ đào tạo).
Trong lĩnh vực GDNN sẽ tiến tới phát triển thị trường dịch vụ công, cụ thể là:
- Chuyển mạnh mẽ việc cung ứng dịch vụ GDNN từ các cơ quan nhà nước sang xã hội. Nhà nước chỉ tập trung phát triển các trường chất lượng cao, các ngành, nghề nhà nước có nhu cầu nhưng các trường ít đào tạo. Lấy chất lượng “đầu ra”, sự chấp nhận của thị trường làm thước đo để đánh giá uy tín, chất lượng các trường, qua đó có cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển và cơ chế “thải loại” nhằm nâng cao chất lượng chung. Các cơ sở GDNN được đối xử bình đẳng trong các hoạt động cung ứng dịch vụ công về đào tạo.
- Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển GDNN: Mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ dạy nghề; khuyến khích và đẩy mạnh việc huy động, có chính sách qui định trách nhiệm và quyền lợi đối với sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các tập thể, các tổ chức quốc tế và cá nhân trong và ngoài nước cho GDNN.
- Có cơ chế kiểm tra, kiểm soát hợp lý nhằm đảm bảo chất lượng cung ứng dịch vụ của các cơ sở GDNN ngoài công lập. Quy định chế độ thông tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình của các đơn vị sự nghiệp công. Xây dựng cơ chế giám sát và đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra để kịp thời xử lý những hiện tượng tiêu cực, tuỳ tiện.
2. Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng, chuyển mạnh đào tạo theo năng lực, chú trọng phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng khởi nghiệp để có thể tiếp thu, làm chủ những tiến bộ công nghệ của Công nghiệp 4.0
 Trước hết, cần xây dựng và ban hành chuẩn các điều kiện đảm bảo chất lượng và các chuẩn có liên quan trong hệ thống GDNN phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp cận các chuẩn khu vực ASEAN-4 và các nước phát triển trong nhóm G20. Theo đó, việc chuẩn hóa các yếu tố bảo đảm chất lượng bao gồm:
Đổi mới chương trình đào tạo: Xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, có sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động phù hợp với chương trình đào tạo; tích hợp các nội dung đào tạo một cách hợp lý về kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, an toàn lao động, bảo vệ môi trường, quyền con người, phòng chống tham nhũng; hình thành năng lực sáng tạo cho người học; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình đào tạo. Xây dựng chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành, nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn.
Cần tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị theo chuẩn để có thể tiếp thu, làm chủ những tiến bộ công nghệ của Công nghiệp 4.0
Đối với việc chuyển giao chương trình đào tạo từ nước ngoài, tiếp tục chuyển giao 16 bộ chương trình đào tạo từ nước ngoài và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý, đào tạo thí điểm tối thiểu một lớp mỗi ngành/nghề trọng điểm đến năm 2020, tổng kết đánh giá thực hiện để nhân rộng giai đoạn tiếp theo. Xây dựng các bộ chương trình tiếng Anh chuyên ngành đối với các chương trình chuyển giao từ nước ngoài; tổ chức đánh giá trình độ tiếng Anh, tin học cơ bản cho học sinh, sinh viên theo chuẩn quốc tế; thí điểm đào tạo ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên theo học các ngành, nghề tiếp cận trình độ ASEAN-4 và tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20 tại các trường được quy hoạch trường chất lượng cao.
Đổi mới tổ chức đào tạo: Áp dụng công nghệ đào tạo tiên tiến của các nước phát triển, ứng dụng đồng bộ CNTT trong dạy-học, quản lý đào tạo; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; thí điểm thuê chuyên gia nước ngoài đào tạo trong một số ngành, nghề chất lượng cao cần đạt chuẩn quốc tế mà trong nước chưa đáp ứng được.
Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra đánh giá: Khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động, các hiệp hội nghề nghiệp trong đánh giá kết quả đào tạo của cơ sở GDNN. Thí điểm cơ chế cơ quan độc lập đánh giá và cấp văn bằng, chứng chỉ cho người tốt nghiệp các trình độ GDNN. Phối hợp với các tổ chức đánh giá, cơ sở GDNN của nước ngoài trong đào tạo, đánh giá và cấp phát hoặc công nhận văn bằng, chứng chỉ.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GDNN: Huy động, khuyến khích các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động tham gia đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề cho nhà giáo bằng nhiều hình thức thích hợp: tiếp nhận nhà giáo đến thực tập tại doanh nghiệp để cập nhật, nâng cao kỹ năng thực hành nghề, tiếp cận công nghệ mới... tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ GDNN cho người dạy và người làm công tác GDNN trong các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động.
- Đổi mới chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo phù hợp cho từng đối tượng về nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề, tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới và kỹ năng mềm trên cơ sở chuẩn của nhà giáo GDNN. Đổi mới cơ chế đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo theo hướng nhà nước đầu tư kinh phí để làm thí điểm, các địa phương và cơ sở GDNN đầu tư kinh phí để nhân rộng cho các nhà giáo khác thuộc thẩm quyền quản lý.
- Rà soát, bố trí, sắp xếp lại những nhà giáo không đáp ứng được yêu cầu bằng các giải pháp thích hợp như: đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, bố trí làm các công việc phù hợp với năng lực, đồng thời bảo đảm các chế độ, chính sách đối với nhà giáo được bố trí, sắp xếp lại.
- Xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý của các cơ sở GDNN để hình thành đội ngũ cán bộ quản lý cơ sở GDNN chuyên nghiệp. Tăng cường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý GDNN cho cán bộ, công chức thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về GDNN các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương.
Chuẩn hóa, tăng cường cơ sở vật chất thiết bị: Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị theo chuẩn, chú trọng công trình dịch vụ phụ trợ tạo môi trường học tập thân thiện, hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập, sinh hoạt của người học. Xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa ứng dụng thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong giảng dạy tại các cơ sở GDNN để giảm bớt đầu tư trang thiết bị (ưu tiên các ngành, nghề trọng điểm quốc gia); xây dựng thư viện điện tử; trung tâm học liệu số mở để các cơ sở GDNN được tham gia xây dựng và sử dụng.
Ứng dụng Công nghệ thông tin (CNTT) trong GDNN hướng tới đáp ứng yêu cầu của Công nghiệp 4.0: Thực hiện hiện đại hóa hạ tầng CNTT và hệ thống thông tin quản lý GDNN cho cơ quan quản lý GDNN các cấp. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào các hoạt động quản lý, hoạt động dạy-học và kiểm tra đánh giá trong các cơ sở GDNN; thí điểm vận hành hệ thống đào tạo trực tuyến trong GDNN đối với tất cả các trình độ đào tạo GDNN. Áp dụng CNTT để xây dựng hệ thống kết nối cung và cầu đào tạo trong toàn hệ thống GDNN.
3. Gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và an sinh xã hội
Nhóm giải pháp này, về bản chất, cũng bao hàm mục đích quan trọng của GDNN và đạt được thông qua các hoạt động sau:
- Nâng cao chất lượng hoạt động dự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về nhu cầu nguồn nhân lực, nhu cầu việc làm và nhu cầu đào tạo theo lĩnh vực, ngành nghề, cấp trình độ đào tạo.
- Tăng cường công tác hướng nghiệp, tư vấn về GDNN tại trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và người lao động.
- Nghiên cứu và triển khai các mô hình khởi nghiệp cho người được đào tạo nghề nghiệp. Hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và các trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm nhằm hỗ trợ người học tìm việc làm sau tốt nghiệp; chú trọng gắn kết đào tạo với xuất khẩu lao động.
- Triển khai đào tạo xanh đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế xanh. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các hoạt động GDNN, đẩy mạnh các hoạt động xóa bỏ định kiến giới trong công tác hướng nghiệp, xây dựng các sản phẩm truyền thông về thúc đẩy bình đẳng giới trong cơ sở GDNN.
- Phát huy vai trò của doanh nghiệp, người sử dụng lao động, hiệp hội nghề nghiệp trong xây dựng chiến lược, chính sách phát triển GDNN; xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề và các chuẩn có liên quan trong GDNN, chương trình đào tạo, tham gia quá trình đào tạo, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề cho nhà giáo và người học; thí điểm thành lập các hội đồng kỹ năng ngành trong một số lĩnh vực ưu tiên; xây dựng mô hình hợp tác công tư (PPP) trong lĩnh vực GDNN.
- Về tương lai việc làm, trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, để tăng cường năng lực tiếp cận Công nghiệp 4.0, người lao động ngoài kỹ năng nghề nghiệp cần được trang bị nhiều hơn những kỹ năng như ứng dụng CNTT, giao tiếp hiệu quả, lắng nghe tích cực và tư duy phê phán, khả năng nhận thức có tính sáng tạo và lập luận toán, giải quyết vấn đề. Việc hợp tác, liên kết giữa hệ thống đào tạo với các khu vực tư nhân (như tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp), tạo điều kiện để sinh viên trải nghiệm, thực hành; cập nhật nâng cao kỹ năng hoặc tái tạo kỹ năng cho người lao động, đồng thời chú trọng phát triển giáo dục STEM.
Ba nhóm giải pháp đột phá trên cũng đã được đề cập trong dự thảo Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”. Việc xây dựng và triển khai Đề án là hết sức cần thiết nhằm xác định quan điểm, mục tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN theo các lộ trình và điều kiện thực hiện bảo đảm tính khả thi và hiệu quả./.
PGS.TS. Lê Quân
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội