Nghiên cứu - trao đổi
Một số định hướng sửa đổi, bổ sung pháp luật lao động - việc làm và an sinh xã hội ở Việt Nam
02:03 PM 21/10/2016
Hiến pháp năm 2013, tại các Điều 16, 26, 32, 34, 35, 37, 57, 59, 61 quy định liên quan trực tiếp đến các vấn đề lao động, việc làm, tiền lương, an sinh xã hội (ASXH) và ATVSLĐ với nhiều nội dung mới thể hiện tầm nhìn dài hạn đối với các lĩnh vực xã hội, đòi hỏi cần được tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa phù hợp, có bước phát triển mới trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, cần đặt các nội dung này trong mối quan hệ với các quy định về quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt là các quy định tại Điều 14, 15, 16 của Hiến pháp trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, ASXH và an toàn, vệ sinh lao động ở nước ta hiện nay.
Yêu cầu đó đặt ra sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về lao động, việc làm, an toàn, vệ sinh lao động và ASXH nhằm: (i) khắc phục những bất cập trong việc triển khai, tổ chức thực hiện; (ii) bảo đảm đồng bộ với hệ thống pháp luật mới ban hành đặc biệt là quyền con người theo Hiến pháp; (iii) đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tham gia FTA, cộng đồng ASEAN và đảm bảo thực thi các cam kết của Việt Nam trong TPP; (iv) giảm chênh lệch các chỉ số về ASXH giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước.
Qua rà soát hệ thống pháp luật hiện hành và Hiến pháp năm 2013 và kết quả giám sát, khảo sát thực thi pháp luật, chúng tôi khuyến nghị, định hướng sửa đổi Bộ luật Lao động (BLLĐ), Luật Việc làm, ASXH phù hợp với Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tham gia FTA, cộng đồng ASEAN và đảm bảo thực thi các cam kết của Việt Nam trong TPP.
Khuyến nghị, định hướng sửa đổi Bộ luật Lao động
Hiến pháp quy định nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động (NLĐ), người sử dụng lao động (NSDLĐ) và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57). NLĐ được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi (Điều 36), do vậy, để bảo đảm thực hiện các quyền, nghĩa vụ chính đáng của NLĐ, NSDLĐ đã được Hiến pháp ghi nhận, BLLĐ cần phải được sửa đổi, bổ sung thêm một số vấn đề sau:
Về hợp đồng lao động
- Nghiên cứu xem xét bổ sung quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ khi phát hiện NLĐ cung cấp thông tin sai sự thật khi giao kết hợp đồng lao động, cụ thể là bổ sung vào Khoản 1 Điều 38 BLLĐ.
- Cần cân nhắc kỹ sửa đổi, bổ sung BLLĐ liên quan đến quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
- Về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NLĐ (Điều 37 BLLĐ): nghiên cứu bổ sung trường hợp được quyền đơn phương là khi NSDLĐ không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về các vấn đề liên quan đến công việc trong hợp đồng lao động.
- Nghiên cứu để quy định rõ ràng về việc bồi thường chi phí đào tạo trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật. Hiện nay BLLĐ chưa quy định rõ.
- Về việc hưởng trợ cấp thôi việc của NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, theo kết quả khảo sát nhóm đối tượng NSDLĐ và NLĐ là không nên, tuy nhiên ý kiến cán bộ quản lý chủ yếu (66,7%) là nên. Vì vậy vấn đề này cần được xem xét kỹ hơn trong việc sửa đổi, bổ sung vào Bộ luật.
Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về lao động, việc làm, an toàn, vệ sinh lao động và ASXH
- Về việc hưởng/không hưởng trợ cấp thôi việc khi NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động để hưởng lương hưu hàng tháng cũng cần xem xét để đảm bảo tính công bằng giữa những NLĐ, tránh việc “lách” luật.
- Về thời gian cần thiết để doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản liên quan đến quyền lợi của NLĐ (trợ cấp thôi việc, tiền lương và các khoản thanh toán của doanh nghiệp; chốt sổ bảo hiểm xã hội) khi hợp đồng lao động bị chấm dứt, theo kết quả khảo sát thì 15 ngày là được sự đồng thuận khá cao của 3 nhóm đối tượng, do vậy cũng cần nghiên cứu sửa đổi trong BLLĐ (Điều 47).
- Nghiên cứu quy định NLĐ cần được biết một cách chi tiết rõ ràng các công việc của NLĐ cần phải làm trước khi ký kết hợp đồng lao động (bằng văn bản).
Về tiền lương
Tiền lương là một tiêu chuẩn lao động quan trọng để bảo đảm cho cuộc sống của NLĐ. Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 có ghi nhận có tính nguyên tắc về việc NLĐ trong khu vực có quan hệ lao động “được hưởng lương”. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 57 Hiến pháp cũng quy định “Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, NSDLĐ và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định”. Thực tế, các cuộc đình công, ngừng việc tập thể diễn ra trong thời gian qua hầu hết đều có nguyên nhân từ vấn đề tiền lương trả cho NLĐ. Do vậy, để thực hiện các quy định này của Hiến pháp thì phải cụ thể hóa trong BLLĐ và các văn bản pháp luật khác có liên quan thì cần quy định các tiêu chí cụ thể để đo lường chính xác nhu cầu sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ trong từng giai đoạn cụ thể; bên cạnh đó cũng cần tính toán tới yếu tố năng suất lao động, chất lượng công việc và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp để từ đó xác định mức lương tối thiểu phù hợp như quy định tại Điều 91 BLLĐ (2012) và các công ước của ILO. Ngoài ra, cũng cần cụ thể hóa quy định về “Mức lương tối thiểu được xác định theo tháng, ngày, giờ và được xác lập theo vùng, ngành.” và quy định “NSDLĐ phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với NLĐ làm công việc có giá trị như nhau” để hiện thực hóa quy định về quyền được hưởng lương của NLĐ như Hiến  pháp đã quy định.
Đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể, thỏa ước lao động tập thể
Để xây dựng được quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Hiến pháp năm 2013 thì cần phải thường xuyên, định kỳ tổ chức đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể, đàm phán, ký kết thỏa ước lao động tập thể để giải tỏa các mâu thuẫn, tranh chấp lao động giữa NLĐ và NSDLĐ. Do vậy, pháp luật lao động cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:
- Cần quy định chặt chẽ hơn về cơ chế báo cáo của doanh nghiệp, cơ chế hỗ trợ của cơ quan lao động địa phương (Sở LĐTBXH, phòng LĐTBXH cấp quận, huyện…)
- Về việc quy định định kỳ thực hiện đối thoại 03 tháng/lần (Điều 65 BLLĐ), có thể quy định linh hoạt hơn như: “Thực hiện đối thoại định kỳ 03 tháng/lần, tuy nhiên tùy thuộc vào việc chấp hành quy định pháp luật của doanh nghiệp có thể giảm xuống nhưng ít nhất trong 06 tháng phải tổ chức 01 lần, việc đối thoại là cần thiết do có ảnh hưởng tốt đến quan hệ lao động.
Tranh chấp lao động và đình công
- Nghiên cứu xem xét việc có quy định rõ ràng cụ thể để xác định được tính chất của các cuộc đình công bất hợp pháp, NLĐ phải chịu trách nhiệm khi tham gia đình công bất hợp pháp.
- Nghiên cứu sửa đổi trình tự, thủ tục đình công đơn giản và hợp lý hơn.
Việc thành lập, hoạt động của Tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp.
- Quy định về thành lập: Hiện tại trong BLLĐ và các văn bản liên quan chưa có quy định về việc thành lập tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu của TPP, cần điều chỉnh chương XIII trong BLLĐ cho phép NLĐ trong doanh nghiệp được thành lập tổ chức của mình. Cần bổ sung một số điều quy định về thủ tục đăng ký và công nhận tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng cần thiết ban hành một nghị định quy định chi tiết các điều khoản này.
- Quy định về hoạt động: Cần có các quy định về bầu người đại diện, dự thảo điều lệ hoạt động, quản lý tài chính và tài sản, thương lượng tập thể, lãnh đạo đình công và các hành động tập thể khác. Theo đó, trong BLLĐ cần điều chỉnh một số điều khoản trong chương I, chương XIII và một số chương khác.
- Quy định về tham gia ý kiến và tư vấn với cơ quan chức năng: Trong BLLĐ cần sửa đổi các điều 7.2; 92.1 và 195.1. Ngoài ra, cần ban hành Nghị định mới để thay thế cho Nghị định số 43/2013/NĐ-CP, Nghị định số 53/2014/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung Nghị định số 49/2013/ND-CP và ban hành quyết định thay thế Quyết định số 1055/QĐ-TTg.
Việc NLĐ có quyền thành lập các tổ chức đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Điều này cũng là cơ sở, điều kiện để xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định. Đồng thời, cũng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, phù hợp với các công ước về tiêu chuẩn lao động cơ bản của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập và ký kết Hiệp định TPP cũng có nội dung quy định về lao động. Do vậy, BLLĐ, Luật công đoàn cần ghi nhận quyền của NLĐ được thành lập các tổ chức đại diện bảo vệ quyền, lợi ích cho mình. Điều này cho thấy, cần phải xem xét, sửa đổi các quy định về công đoàn cấp trên: Cần ban hành quy định không yêu cầu tổ chức của NLĐ cấp trên đại diện cho NLĐ tại nơi chưa thành lập tổ chức của NLĐ. BLLĐ cần sửa đổi các điều khoản liên quan trong chương I, chương XIII và một số chương khác. Các nội dung liên quan cũng cần được thể hiện trong Nghị định thay thế cho Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, cũng như sửa đổi bổ sung các nội dung liên quan trong Nghị định số 41/2013/NĐ-CP, Nghị định số 43/2013/NĐ-CP, Nghị định số 46/2015/NĐ-CP, Nghị định số 60/2013/NĐ-CP và Nghị định số 85/2015/NĐ-CP (Chương II). Bên cạnh đó, cũng cần sửa đổi Nghị định số 95/NĐ-CP và Nghị định số 88/NĐ-CP để mở rộng phạm vi bảo vệ chống lại các hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn, bao gồm cả yếu tố thương lượng thiện chí và hình phạt nghiêm khắc để ngăn ngừa vi phạm.
Về đình công
Đình công là một quyền của NLĐ được pháp luật bảo vệ, được Hiến pháp ghi nhận khái quát tại khoản 2 Điều 57 về việc “nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ”. Đình công là hành vi của tập thể NLĐ chống lại NSDLĐ khi họ thấy quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình bị xâm phạm. Do vậy, pháp luật lao động cần phải tiếp tục sửa đổi để bảo đảm thực hiện quyền này của NLĐ, cụ thể như sau:
- Quy định đình công về quyền: Để đảm bảo rằng các cuộc đình công về quyền có thể được tiến hành, BLLĐ cần điều chỉnh Điều 209.2 và Điều 215.1.
- Quy định về điều kiện đình công: Pháp luật cần quy định rằng cuộc đình công sẽ được tổ chức khi có 50% cộng một số thành viên ban chấp hành tổ chức của NLĐ đồng ý. Như vậy, BLLĐ cần sửa đổi, bổ sung các điều 211.1; 212; 213.1 và 214.2. Ngoài ra, chúng ta cũng cần ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 46/2013/NĐ-CP.
- Về phạm vi đình công: Pháp luật cần quy định việc cho phép những NLĐ làm việc ở các doanh nghiệp khác nhau trong cùng cấp thương lượng tập thể được phép đình công (thương lượng ở cấp nào, được đình công ở cấp ấy). Việt Nam cũng cần sửa đổi lại danh mục các doanh nghiệp không được đình công nhằm cho phép đình công được tiến hành trong lĩnh vực khai thác, thăm dò dầu khí và sản xuất, cung cấp khí đốt (điều 2.1b, Nghị định số 41/2013/NĐ-CP). 
Như vậy, BLLĐ cần sửa đổi bổ sung các điều 3.3; 209; 210; 211.1; 212; 213.1; 214.2 và 215.2. Ngoài ra, chúng ta cũng cần nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 46/2013/NĐ-CP và ban hành nghị định thay thế cho Nghị định số 41/2013/NĐ-CP.
Về Lao động cưỡng bức: Khoản 3 Điều 35 của Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định “nghiêm cấm cưỡng bức lao động”. Do vậy, pháp luật lao động cần bổ sung, cụ thể hóa khái niệm lao động cưỡng bức và hành vi cưỡng bức lao động. Theo đó, Việt Nam cần sửa đổi điều 3.10 trong BLLĐ và bổ sung thêm hướng dẫn về cưỡng bức lao động bao hàm cả “lao động gán nợ”.
Về Phân biệt đối xử: Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tại khoản 3 Điều 35 về việc nghiêm cấm phân biệt đối xử. Do vậy, pháp luật lao động, cần bổ sung một số hình thức phân biệt đối xử thông qua việc nội luật hóa công ước 111 của ILO (về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp) như phân biệt đối xử theo màu da, theo chủng tộc và theo nguồn gốc dân tộc. Như vậy, BLLĐ cần sửa đổi Điều 8.1 theo hướng quy định chi tiết các hình thức phân biệt đối xử này, đồng thời cũng cần sửa đổi để đảm bảo rằng phân biệt đối xử trong “tất cả các khía cạnh về việc làm” cần phải được nghiêm cấm. Những nội dung này cũng cần được hướng dẫn chi tiết trong một nghị định thích hợp. Điều 160 của BLLĐ cần được sửa đổi nhằm đảm bảo việc bảo vệ an toàn sức khỏe nghề nghiệp cho lao động nữ và bãi bỏ việc ngăn cấm phụ nữ làm các nghề cụ thể.
Các nội dung khác
- Về quy định giờ làm thêm: Cần xem xét cụ thể hơn đảm bảo hài hòa giữa NLĐ và NSDLĐ và phụ thuộc vào từng ngành nghề và tâm sinh lý, sức khỏe của NLĐ và so sánh với các nước trong khu vực và quốc tế. Một số ý kiến cho rằng nên quy định số giờ làm thêm tối đa trong 1 tuần và trong 1 tháng.
Qua 3 năm thực thi pháp luật lao động, Nhiều doanh nghiệp kiến nghị xem xét bỏ quy định giới hạn số giờ làm thêm và đề nghị tăng giờ làm thêm lên thành 360-400 thậm chí là 400-600 giờ mỗi năm. Lý do đưa ra là quy định giờ làm thêm của Việt Nam ở mức 200-300 giờ hiện nay là thấp, gây nhiều khó khăn cho việc sản xuất, trong khi thời gian làm thêm giờ của Trung Quốc và Thái Lan trên 600 giờ/năm, indonexia 728 giờ/năm, Hàn Quốc tối đa 68 giờ/tuần và ILO cũng quy định trên 600 giờ/năm.
- Nghiên cứu bổ sung quy định về giám sát làm thêm giờ của các doanh nghiệp.
- Cân nhắc quy định thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ (20% NSDLĐ và 7% NLĐ cho rằng chưa phù hợp).
- Về quy định cho NLĐ nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút tính vào giờ làm việc là cần thiết và quy định chặt chẽ hơn để buộc NLĐ và NSDLĐ thực hiện nhằm đảm bảo sức khỏe cho NLĐ, không quy định tính tiền làm thêm giờ khi NLĐ không nghỉ sẽ chuyển sang tiền chứ không đạt được mục đích đảm bảo sức khỏe như mong muốn của Luật.
- Nghiên cứu việc quy định về mức giá trị để xác định hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của NSDLĐ, làm căn cứ cho các doanh nghiệp quy định trong Nội quy lao động.
- Một số quy định về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam còn hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung. Ví dụ: quy định về điều kiện đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong khi chưa có tiêu chí cụ thể để xác định lao động nước ngoài có trình độ cao vào làm việc tại Việt Nam hiện nay, việc xác định không dựa vào kỹ năng nghề nghiệp mà chủ yếu vẫn dựa trên bằng cấp đạt được hoặc kinh nghiệm khai theo lý lịch của NLĐ gây khó khăn trong khâu thẩm định, cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài làm hạn chế giá trị thực tiễn của các quy định về quản lý, cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài. Mặt khác, quy định này không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay là có những công việc đơn giản nhưng lao động Việt Nam không thể đáp ứng được hoặc đáp ứng không đủ và các nhà thầu nước ngoài buộc phải đưa lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc song không được cấp giấy phép lao động gây thất thu cho ngân sách nhà nước và bỏ sót một bộ phận lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không được quản lý. Để thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, cụ thể về Điều 12 về việc đảm bảo “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” và Điều 48 “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam.” thì cần xem xét sửa đổi việc mở rộng hơn các cơ hội làm việc của lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phù hợp với các cam kết trong Hiệp định TPP, các cam kết với ASEAN về lao động...
- Nghiên cứu nâng mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực  lao động đảm bảo tính răn đe như vấn đề khai trình lao động; tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài; khai báo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc…
Khuyến nghị, định hướng sửa đổi Luật Việc làm nhằm đảm bảo phù hợp hơn với các quy định của Hiến pháp năm 2013
- Xem xét sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cụ thể các điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc giúp đỡ và tạo điều kiện để NLĐ sớm quay lại thị trường lao động.
- Cân nhắc việc giảm mức đóng và tăng chế độ chi trả bảo hiểm thất nghiệp để hạn chế gánh nặng cho doanh nghiệp, NSDLĐ, nhưng phải bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Khắc phục những lỗ hổng trong chính sách dẫn đến việc lợi dụng để trục lợi từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy và quy trình giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp gắn với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.
- Xem xét sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cụ thể các điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc giúp đỡ và tạo điều kiện để NLĐ sớm quay lại thị trường lao động.
- Cân nhắc việc giảm mức đóng và tăng chế độ chi trả bảo hiểm thất nghiệp để hạn chế gánh nặng cho doanh nghiệp, NSDLĐ, nhưng phải bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Khắc phục những lỗ hổng trong chính sách dẫn đến việc lợi dụng để trục lợi từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy và quy trình giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp gắn với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.
Khuyến nghị, định hướng nhằm hoàn thiện chính sách ASXH đảm bảo phù hợp hơn với các quy định của Hiến pháp năm 2013
- Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho NCC, phấn đấu bảo đảm gia đình NCC có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn.
- Ðến năm 2020, cơ bản bảo đảm ASXH toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
- Việt Nam, hiện nay thời kỳ dân số vàng vẫn tiếp diễn, tăng trưởng được kỳ vọng. Trong thời gian này, việc xây dựng chế độ ASXH và tích lũy vốn là cần thiết.
- Định hướng hoàn thiện hệ thống ASXH: xây dựng sàn ASXH; cần điều chỉnh mức đóng góp, xây dựng mức phí bảo hiểm cao; tích lũy nguồn vốn từ bảo hiểm, đảm bảo tình trạng tài chính bảo   hiểm bền vững trong tương lai.
                                           TS. Bùi Sỹ Lợi
                                                  Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội